Năm Mậu Ngọ (1558), Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng đã đưa gia đình cùng những người thân tín nhất của mình vượt núi Hoành Sơn để đi về phương Nam trấn nhậm. Mảnh đất đầu tiên ông dừng chân ở lại có tên là Ái Tử, thuộc huyện Đăng Xương (nay thuộc huyện Triệu Phong của tỉnh Quảng Trị). Ở đó, ông bắt đầu thu phục nhân tâm, rộng ban ơn đức, chiêu mộ anh hùng hào kiệt từ khắp mọi nơi kéo về hội tụ. Từ đó, họ Nguyễn bắt đầu khởi nghiệp và bành trướng ở xứ Đàng Trong…
Tượng Chúa Tiên Nguyễn Hoàng. |
Chúa Tiên Nguyễn Hoàng là người đã gắn bó đời mình với Quảng Trị nhiều nhất, ông thủy chung với mảnh đất khởi nghiệp này từ ngày đầu tiên ông đến cho tới khi trút hơi thở cuối cùng (1613).
BÀI I: CÁI CHẾT BẤT THƯỜNG CỦA CON TRAI MỘT VỊ TƯỚNG
Với mong muốn nhìn nhận, đánh giá một cách đầy đủ, khách quan và công bằng về sự kiện lịch sử rất quan trọng này, đồng thời làm sáng tỏ vị thế của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng cũng như đất Quảng Trị với những địa danh Ái Tử, Trà Bát, Dinh Cát trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Ngày 25/9, UBND tỉnh Quảng Trị đã phối hợp với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Sử học tổ chức Hội thảo khoa học "Quảng Trị - đất dựng nghiệp của Chúa Nguyễn Hoàng" nhân kỷ niệm 455 năm Chúa Tiên Nguyễn Hoàng khởi nghiệp ở Ái Tử và 400 năm ngày mất của ông.
Hội thảo mang tầm quốc gia này đã thu hút sự tham gia của rất nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đang sống và làm việc trong nước. Có 33 tham luận với hơn 400 trang in là những công trình nghiên cứu rất mới mẻ về Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đã được mang đến hội thảo.
Trong bài viết này, chúng tôi chỉ mong muốn được gửi đến quý bạn đọc những tư liệu mà vẫn còn ít người biết về mảnh đất cách đây 455 năm Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đã dừng chân để khởi nghiệp và những câu chuyện cuộc đời của vị chúa được xem là "người mang gươm đi mở cõi", người đặt những viên đá đầu tiên cho sự phát triển và tồn tại gần 4 thế kỷ của nhà Nguyễn về sau này…
Năm Đinh Hợi (1527), khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi của nhà Lê để lên làm vua, lấy niên hiệu là Minh Đức. Có thể nói rằng, hành động giết chết vua để cướp ngôi của họ Mạc lúc bấy giờ đã tạo nên một "cú sốc lớn" gây chấn động lòng dân cả nước. Đặc biệt, trước hành động bất trung của họ Mạc đã gây nên sự bất phục ở hầu hết mọi giới quan lại, sĩ phu đương thời. Giai đoạn đó, có những vị trung nghĩa với nhà Lê vì quá uất ức mà tự mình tìm đến cái chết; có người vì buồn chán mà thay tên, đổi họ để sống một cuộc đời mai danh ẩn tích quyết không ra hợp tác với nhà Mạc; có kẻ bỏ hết sự nghiệp tìm đến những nơi thâm sơn cùng cốc để thiền định tu hành; có người cùng với những chiến hữu thân tín của mình chạy sang những nước láng giềng lánh nạn, chờ cơ hội thuận lợi sẽ kéo quân trở về phục hận cho nhà Lê.
Trong số những cận thần của nhà Lê chạy qua Ai Lao hồi đó, có quan Hữu Vệ Điện Tiền Tướng quân An Thanh Hầu Nguyễn Kim, quê ở Gia Miêu Ngoại Trang, huyện Tống Giang, lộ Thanh Hoa, về sau thuộc tổng Thượng Bạn, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa; sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là xã Lam Sơn sau đổi thành xã Long Khê; từ 1954 đến nay là xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.
Khi chạy sang Ai Lao, Nguyễn Kim được vua của nước này là Xạ Đẩu cho đến ở tại xứ Sầm Châu, thuộc phủ Trấn Nam và đồng ý cho mượn đất này để dựng bản doanh, chiêu mộ quân binh phò Lê diệt Mạc. Là một bậc trung thần của nhà Lê và là một tướng tài có chí lớn, vì vậy khi mới đặt chân đến xứ Sầm Châu là Nguyễn Kim bắt tay ngay vào việc tìm kiếm con cháu nhà Lê để lo việc khôi phục. Nhưng cái khó lúc bấy giờ là con cháu nhà Lê một số đã bị sát hại, một số thì phải mai danh ẩn tích để đề phòng việc bị nhà Mạc truy nã.
Cuối cùng, sau nhiều bận cử người thân tín của mình ngược xuôi đây đó, Nguyễn Kim mới tìm được một người trong tôn thất tên là Lê Duy Ninh (tục danh thường gọi là Chổm). Lúc bấy giờ, Duy Ninh sống lưu lạc trong dân gian, nghèo khổ túng bấn lắm nên nợ nần quá đỗi, vì vậy mà sau này trong dân gian vẫn còn lưu truyền câu thành ngữ mang tính ám chỉ là: "Nợ như chúa Chổm".
Sách "Gần 400 năm vua chúa triều Nguyễn" của tác giả Lưỡng Kim Thành, do NXB Thuận Hóa ấn hành năm 2012 viết: Duy Ninh được Nguyễn Kim tôn phò lên ngôi, lấy hiệu là Lê Trang Tông, nhà Lê trung hưng từ đó. Lúc bấy giờ, nhà Mạc đóng đô ở Thăng Long, còn nhà Lê đóng ở hành điện nằm trên xã Vạn Lại, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Hai thế lực Lê-Mạc đánh nhau suốt 20 năm trời. Nhà Mạc ban đầu mạnh hơn, nhưng do lòng dân không phục vì chính sự phiền hà và nhất là việc Mạc Đăng Dung cắt đất 5 động phía bắc dâng cho quân Tàu để cầu phong Vương. Việc làm này đã làm cho hầu hết sĩ phu trong nước bất bình và ngấm ngầm chống lại. Trong khi đó, nhà Lê trung hưng dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Kim ngày càng có thêm nhiều binh hùng tướng mạnh. Vua Lê Trang Tông lúc đó giao hết binh quyền cho Nguyễn Kim và phong ông làm Thái sư, tước Hưng Quốc Hầu.
Thời bấy giờ, Nguyễn Kim không những đã tìm ra minh chủ để ổn định tinh thần mưu cầu việc lớn mà còn chiêu mộ về dưới trướng mình rất nhiều tướng trẻ tài ba. Trong số đó, nổi bật nhất là Trịnh Kiểm, người làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc (Quảng Hóa).
Sách "Thời Nam Bắc triều" của tác giả Việt Chương, do NXB Phụ Nữ ấn hành năm 2001 viết: Lúc bấy giờ thấy Trịnh Kiểm là người có thực tài, và vì muốn mưu đồ của mình nhanh chóng đi đến thành tựu, nên Nguyễn Kim đã không ngần ngại gả người con gái cưng đầu lòng là tiểu thư Ngọc Bảo cho Trịnh Kiểm. Từ đó, cha vợ và con rể cùng bắt tay vào việc xây dựng lý tưởng chung là hết lòng phò vua giúp nước. Hai cha con thường tỏ ra rất tâm đắc, cùng dốc chí chiêu tập hào kiệt bốn phương, tôi rèn binh mã, tích trữ quân lương, gấp rút xây dựng và chuẩn bị trong khoảng thời gian đến 8 năm trời.
Năm 1540, khi thấy trong tay mình đã có được một đội quân hùng mạnh, từ chiến khu ở Sầm Châu, Nguyễn Kim đã phò Vua Lê Trang Tông kéo quân về đánh chiếm đất Nghệ An và chuyến hành quân ấy đã thành công rất mỹ mãn. Hai năm sau, Nguyễn Kim lại tiếp tục phò vua tiến quân ra đánh chiếm hai vùng Thanh - Nghệ. Thế quân bây giờ vô cùng hùng mạnh, nên đánh đến đâu là giành chiến thắng lẫy lừng như trúc chẻ ngói tan.
Quân Mạc yếu hèn không tài nào đương đầu kháng cự nổi mà chỉ biết làm một việc duy nhất là cuốn cờ, im trống rồi cùng nhau thúc ngựa chạy dài. Vua Lê đi đến đâu cũng được người dân nô nức tiếp đón. Nhờ vậy mà chỉ một năm sau, ngọn cờ khởi nghĩa của Lê Trang Tông đã phấp phới tung bay trên nền trời Tây đô yêu dấu.
Trước sức mạnh như cuồng phong của binh lính nhà Lê. Quan Tổng Trấn nhà Mạc là Dương Chấp Nhất biết mình thế yếu nên đã xin hàng. Việc này đúng với mong muốn của Nguyễn Kim vì Nguyễn Kim biết Dương Chấp Nhất là một viên tướng tài của nhà Mạc. Vì lẽ đó mà Nguyễn Kim đã hết lòng chiêu dụ, tìm dịp ban thưởng trọng hậu để lấy lòng. Qua kiểm chứng, Nguyễn Kim thấy nhờ có Dương Chấp Nhất cung cấp thông tin nên quân của nhà Lê mới đánh đâu thắng đó. Cho là Nhất thực lòng, nên Nguyễn Kim không hề nghi ngờ mà tỏ ra hết sức tin dùng và trọng dụng. Nhiều lần, Nhất được nhà Lê đãi ngộ rất hậu, thậm chí Nguyễn Kim còn mở tiệc tùng khoản đãi, hai người bá cổ, bá vai chén tạc chén thù có vẻ vô cùng tương đắc.
Không ngờ, việc Dương Chấp Nhất xin hàng chỉ là một kế "trá hàng" vì Dương Chấp Nhất vốn là một tay mưu sĩ. Khi thấy chủ của mình là Mạc Đăng Doanh luôn phải lo đối phó với thanh thế nhà Lê, Dương Chấp Nhất đã hiến kế xâm nhập vào nội bộ nhà Lê để phá hoại và đích thân mình thực hiện nhiệm vụ này. Để thực hiện mưu kế, Dương Chấp Nhất (Dương Chấp Nhất là người Hoằng Hóa, Thanh Hóa, là quan nội thị, võ tướng triều Mạc Đăng Doanh, làm đến chức Chưởng bộ, được phong tước Trung Hậu hầu, giao coi 3 phủ Thanh Hóa, làm Tổng trấn cả một phương) đã giao nộp cả gia đình cho nhà Lê và tỏ ý hàng phục.
Vua Lê không mảy may nghi ngờ âm mưu của Dương Chấp Nhất, tỏ rõ vui mừng khi biết mình đã thu phục được một tướng tài của nhà Mạc. Dương Chấp Nhất nhanh chóng lấy được lòng tin của vua Lê và các quan đại thần trong triều, đặc biệt là Thái sư Nguyễn Kim. Bởi vậy, khi Dương Chấp Nhất mở tiệc thết đãi, Nguyễn Kim đã vui vẻ đến dự mà không biết đó là một cái bẫy chết người đang được tên gián điệp Dương Chấp Nhất giăng sẵn để chờ mình. Nguyễn Kim dốc cạn chén rượu Dương Chấp Nhất dâng mà không một chút nghi ngờ về hai chữ "lòng trung" đang được Nhất thực hiện dưới kế sách "trá hàng".
Một lát sau, Nguyễn Kim cảm thấy mệt mỏi, choáng váng nên cáo từ ra về. Dương Chấp Nhất còn cho người đưa Thái sư về tận dinh để nghe ngóng. Đêm ấy, Nguyễn Kim đau đớn vật lộn, trên da xuất hiện nhiều vết đen. Sau khi biết mình trúng phải chất kịch độc, Nguyễn Kim đau đớn nấc lên, nôn ộc ra một vũng máu rồi chết.
Sau cái chết của Nguyễn Kim, Dương Chấp Nhất đã trốn thoát và được Mạc Đăng Doanh trọng thưởng vì công trạng của mình. Tuy kế sách chưa hoàn thành trọn vẹn, vua Lê vẫn chưa bị hạ độc thủ nhưng Mạc Đăng Doanh vẫn hết lời ca ngợi và trọng thưởng Dương Chấp Nhất.
Nguyễn Kim mất năm ông 77 tuổi, sinh thời ông có 3 bà vợ nhưng chỉ sinh được 3 người con. Con gái đầu là Ngọc Bảo (vợ của Trịnh Kiểm) và 2 người con trai là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng. Sau khi Nguyễn Kim chết, tất cả mọi binh quyền đều được giao lại cho Trịnh Kiểm.
Năm 1548, Vua Lê Trang Tông mất. Trịnh Kiểm đã lập thái tử Duy Huyên lên ngôi gọi là vua Trung Tông. Nhưng Vua Lê Trung Tông ở ngôi được chưa đầy 8 năm thì cũng mất. Việc Vua Trung Tông mất đã gây nên một vấn đề khá nan giải cho triều thần và Trịnh Kiểm, vì nhà vua không có con nối dõi.
Trong khi đó, dòng đích tôn của Vua Lê Thái Tổ cũng không còn một ai. Vậy thì sẽ lập ai trong dòng dõi nhà Lê để ngồi vào ngôi báu? Đã thế, thời này ai cũng biết mọi quyền hành của nhà Lê đều nằm gọn trong tay Trịnh Kiểm. Trong triều, ngoài nội ai ai cũng đều biết Trịnh Kiểm là một con người có nhiều tham vọng, chứ không phải là một trung thần đôn hậu như Nguyễn Kim. Vì thế mà lúc này, nếu như Trịnh Kiểm có xưng vương thì chắc chắn rằng không một ai dám chống lại.
Điều mà Trịnh Kiểm ngại ngần là sợ văn võ triều thần bất phục và dân chúng ở bên ngoài lên án, nên còn do dự chưa giành ngôi. Tương truyền rằng, lúc bấy giờ Trịnh Kiểm đã từng nhờ người tâm phúc bí mật ra Hải Dương để hỏi ý kiến của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Cụ trạng đã không trả lời thẳng với người tâm phúc của Trịnh Kiểm mà chỉ quay lại nói với người hầu đang đứng khoanh tay rằng: "Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng bay nên tìm giống cũ để gieo mạ". Nói xong, cụ trạng lại sai người hầu đi ra chùa nói với chú tiểu lo quét dọn và đốt hương để cụ ra lạy Phật. Trước khi đi, cụ Trạng còn nói to rằng: "Giữ chùa thờ Phật thì được ăn oản".
Nghe người tâm phúc về kể lại, Trịnh Kiểm hiểu rất rõ ý nghĩa câu nói của Trạng Trình nên dù có tiếc nuối cũng bỏ ý định xưng vương mà chạy đi tìm cháu huyền tôn (cháu 4 đời) là Duy Bang (cháu gọi Lê Thái Tổ bằng chú) để lập nên làm vua gọi là Vua Lê Anh Tông.
Thời bấy giờ, theo tác giả Lưỡng Kim Thành thì Trịnh Kiểm làm thái sư, đứng đầu triều đình. Bao nhiêu quyền lực đều nằm trong tay ông. Lúc này, con trai trưởng của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông đã được tập ấm là Lãng Xuyên Hầu và được phong tả tướng. Trong triều, những người thân tín của Nguyễn Kim đôi khi đã bàn tán về khả năng chuyển giao quyền hành lại cho Nguyễn Uông… và có lẽ điều này đã khiến cho Trịnh Kiểm cảm thấy lo âu và khó chịu.
Một hôm, Nguyễn Uông dù không đau ốm gì mà đột nhiên lăn đùng ra chết. Cái chết oan nghiệt này đã làm cho người em út Nguyễn Hoàng vô cùng lo ngại, ông cảm thấy rằng rất có thể bản thân mình sẽ là đối tượng của một âm mưu tiêu diệt. Một người khác còn lo lắng hơn đó là Ngọc Bảo, bà rất lo cho tính mạng của đứa em trai út của mình.
Hai chị em đã bàn tính với nhau, rồi bản thân Nguyễn Hoàng cũng đã cùng người thân của mình vượt chặng đường xa đến tìm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm để xin một lời chỉ dạy. Sau khi suy nghĩ và tìm hiểu qua quẻ Dịch, cụ Trạng đã chỉ tay về phương Nam rồi nói: "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân". Nguyễn Hoàng nghe xong cảm thấy tâm trí như sáng ra, cúi đầu cảm tạ cụ Trạng rồi vội quay về kinh đô để gặp chị xin giúp đỡ.
Là vợ chồng, Ngọc Bảo biết rất rõ rằng, Trịnh Kiểm đang rất nặng lòng về việc không biết phải giải quyết làm sao với cậu em út của vợ. Để Nguyễn Hoàng ở trong triều thì lắm lời bàn tán, nhất là sau cái chết đầy bí ẩn của Nguyễn Uông. Nhân đó, Ngọc Bảo nói với chồng: "Sao không để cho Hoàng đi trấn nhậm phương xa cho tiện?".
Nghe vợ nói, Trịnh Kiểm thấy có lý nên khen đó là ý hay. Nhân thể, Ngọc Bảo gợi ý đến mảnh đất Thuận Hóa xa xôi nằm bên kia đèo Ngang hiểm trở. Lại là một ý rất hay nữa nên Trịnh Kiểm tỏ ý tán thành…
Sau khi được người anh rể đầy mưu toan là Trịnh Kiểm đồng tình trong việc Nguyễn Hoàng xin đi trấn nhậm ở phương Nam và được vua Lê Anh Tông chấp thuận, Nguyễn Hoàng đã cùng với người cậu (em ruột mẹ) là Thái Phó Uy Quốc Công Nguyễn Ư Dĩ (có tài liệu nói là Nguyễn Ư Kỷ) bàn tính phương cách để sớm lên đường.
Tượng Thái phó Nguyễn Ư Dĩ được thờ ở làng Trà Liên (Quảng Trị). |
Sau này, nhiều tài liệu nghiên cứu lịch sử đã viết lại rằng, trong đoàn quân hùng hậu Nam tiến vào tháng 10 năm Mậu Ngọ (1558) ấy, Nguyễn Hoàng đã mang theo gia quyến cùng những tướng sĩ thân tín như: Thạch Xuyên, Văn Nham, Tường Trung, Tường Lộc… hai gia tướng của cha mình là Vũ Thì An, Vũ Thì Trung cùng với hàng nghìn đồng hương ở huyện Tống Sơn và đương nhiên là có cả gia quyến của Thái phó Nguyễn Ư Dĩ.
Điểm dừng chân đầu tiên của đoàn quân Nam tiến ấy là cửa Việt Yên (nay là Cửa Việt). Tại đó, Nguyễn Hoàng đã cho quân binh của mình đóng trại ở Gò Phù Sa, xã Ái Tử, huyện Đăng Xương (hay còn gọi là Vũ Xương) thuộc huyện Triệu Phong của tỉnh Quảng Trị ngày nay.
Lúc bấy giờ, Lưu thủ Thuận Hóa là Tống Phướng Trị người ở Tống Sơn, Thanh Hóa đã tìm đến để vái chào Nguyễn Hoàng đồng thời dâng lên cho Nguyễn Hoàng bản đồ và sổ sách trong xứ và xin được một lòng phò tá. Người dân địa phương cũng hết sức vui mừng khi hay tin triều đình nhà Lê đã cử một vị quan lớn vào trấn nhậm xứ sở của mình nên đã đón tiếp quan Trấn thủ vô cùng trọng thể, đồng thời tôn xưng Nguyễn Hoàng là nhà Chúa. Nhân dịp này, những bô lão trong xứ đã mang đến dâng lên nhà Chúa 7 vò nước tinh khiết.
Quan Thái phó Nguyễn Ư Dĩ nhìn thấy việc làm đó của nhân dân đã nói với Nguyễn Hoàng rằng: "Cháu mới đến trấm nhậm đất này mà được người dân dâng nước cho, ấy là điềm được nước vậy". Nguyễn Hoàng mừng vui khôn xiết và xem đó như là một điềm đại cát cho mình, đặc biệt là khi ông nhớ lại câu khuyên bảo của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân".
Cùng với những gì mà bản thân Nguyễn Hoàng đã nhìn thấy, ông chắc rằng lòng dân nơi đây đã thần phục, vì lẽ đó mà ngay từ những ngày đầu tiên đến dựng nghiệp ở vùng đất mới, Nguyễn Hoàng đã tự hứa với lòng mình là sẽ bằng mọi cách để biến vùng đất nghèo nàn, khắc khổ này thành một vùng đất trù phú để làm đất "dung thân" cho mình và con cháu về sau. Tuy nhiên, tận trong sâu thẳm lòng mình, Nguyễn Hoàng vẫn không khỏi e dè không những vì đây là một vùng đất chướng khí mà còn là vùng đất giặc giã như rươi. Ngoài việc quân nhà Mạc, Chiêm Thành, Chân Lạp thường xuyên đánh phá thì bên trong vẫn tồn tại bọn cướp biển, giặc cỏ nổi lên càn quấy…
Cũng xin được nói thêm rằng: Thuận Hóa là địa phận của hai châu Ô, Lý mà xưa kia là quận Ulik của Chiêm Thành. Mảnh đất rộng lớn này là quà sính lễ của Vua Chiêm Thành, Chế Mân Shimhavarman Đệ tam dâng lên Vua Trần Anh Tông để cưới Công chúa Huyền Trân về làm vợ. Ngày Chế Mân chết, theo tục lệ của Chiêm Thành thời ấy thì Hoàng hậu phải lên giàn hỏa thiêu theo xác vua. Nhưng Thượng tướng nhà Trần là Trần Khắc Chung vì si tình người đẹp mà đã âm thầm vượt biển vào đất Chiêm Thành để giải cứu Huyền Trân mang về nước. Từ đó, người Chiêm Thành nổi giận nên đã nhiều lần kéo quân ra đánh Bắc Hà. Mãi hơn một thế kỷ sau, Vua Lê Thái Tông mới đánh thắng Chiêm Thành để làm chủ hẳn đất Ulik. Tuy nhiên, vì mối hận xưa nên thỉnh thoảng quân Chiêm Thành cũng tràn sang đánh phá.
Có thể nói rằng, đất Thuận Hóa thời Nguyễn Hoàng mới đến trấn nhậm là một mảnh đất rộng lớn bao la, hầu như là chưa có bàn tay của con người đến khai phá. Dân tình lúc ấy chủ yếu kéo nhau đến lập làng ở những vùng gần sông suối, họ chỉ khai phá những vùng đất màu mỡ để trồng trọt lúa, ngô, khoai, đậu để phục vụ cuộc sống qua ngày. Vì vậy mà Nguyễn Hoàng đã cho dân tự do khai hoang lập hóa. Ai có sức khai hoang được bao nhiêu thì được quyền làm chủ đất ấy, và cũng chính nhờ vào chính sách khuyến khích cùng với sự giúp đỡ của chính quyền trong việc khai hóa đất đai mà lãnh thổ cứ ngày một được nới rộng.
Như một lẽ thường tình trong cuộc sống, cứ vùng đất nào màu mỡ, trù phú thì người dân lại kéo nhau về sinh sống, rồi họ lập nên chợ để giao thương, họ đào thêm kênh mương để tưới tiêu và rút ngắn hệ thống giao thông nội địa… Chẳng mấy chốc, vùng đất vốn được xem là "khỉ ho cò gáy" khi Nguyễn Hoàng mới đến để lập dinh trại nay đã là một miền đất hứa cho dân chúng ở vùng Thanh - Nghệ di cư vào định cư.
Những ngày đầu dựng nghiệp ở đất phương Nam, Nguyễn Hoàng đã rất quan tâm đến việc thu phục lòng người. Với sự giúp sức tận tình của Thái phó Nguyễn Ư Dĩ, Nguyễn Hoàng đã có rất nhiều việc làm khiến lòng dân hoan hỉ như việc ông cho bố cáo chiêu hiền đãi sĩ, ông ra lệnh giảm thuế cho dân, việc sai dịch cũng được giảm tối đa, chỉ trừ những trường hợp quá ư cần thiết… Ông lo cho dân chúng trong xứ sở ông trấn nhậm được an cư lạc nghiệp ngay sau khi di trú đến vùng đất mới, hành trình ấy đã phải trải qua không biết bao nhiêu gian khó, nhưng nhờ ông là một con người có đầu óc tổ chức tốt nên mọi khó khăn cũng được hóa giải.
Bên cạnh việc lo cho dân có một đời sống sung túc, ông còn cùng với những cận thần thân tín của mình tổ chức nên một lực lượng quân đội hùng mạnh. Có như vậy ông mới đủ sức để chống lại giặc ngoại xâm, đủ sức để đương đầu với quân nhà Mạc, với bọn cướp biển manh động quấy phá cả một vùng lãnh hải rộng lớn…--PageBreak--
Sách "Thời Nam Bắc Triều" của tác giả Việt Chương, do NXB Phụ Nữ ấn hành năm 2001 viết: Thời bấy giờ ở vùng biển Nam Hải và cả biển Đông, bọn hải tặc hung dữ xuất hiện rất nhiều. Lực lượng của chúng lại vô cùng hùng hậu, chúng có nhiều chiến thuyền cỡ lớn, binh sĩ lại giỏi nghề thủy chiến, súng ống tối tân, vì vậy mà trước đó quân đội của triều đình đã nhiều phen ra sức tiễu trừ nhưng vẫn không tiêu diệt được.
Nguy hiểm nhất trong bọn này là giặc Nụy Khấu, hay còn gọi là bọn cướp biển lùn, chúng vừa hung hãn, vừa có súng ống tàu bè. Kế đó là bọn cướp Lâm Phượng (Lima Hong), sử gia người Pháp gọi chúng là Pirate de Gesnie, vốn là bọn cướp biển lừng danh, bất cứ tàu biển nước nào xuôi ngược vùng này cũng phải đóng tiền mãi lộ cho chúng mới được yên thân. Đoàn hải hành nào thời đó dù có đông đảo đến đâu, khi nghe đến tên Lâm Phượng cũng đều kinh hồn bạt vía…
Kể thêm những câu chuyện trên đây để bạn đọc có thể thấy một cách rõ hơn sự "dữ dội" ở vùng đất Thuận Hóa. Thế nhưng, bằng một quyết tâm sắt đá, Nguyễn Hoàng đã từng bước vượt qua mọi khó khăn, khổ ải ở vùng đất mới này và bản thân ông được tất thảy những người dân trong vùng mến mộ, nhiều bậc hiền tài tìm đến giúp rất đông. Chỉ một thời gian ngắn kể từ khi ông đến, mảnh đất Ái Tử đã trở thành nơi đô hội, người dân được sinh sống trong ấm no hạnh phúc, họ xưng tụng ông là Chúa Tiên để biết ơn và kính trọng…
Trong phần mở đầu của tham luận "Quảng Trị - Địa bàn chiến lược tối ưu của Chúa Nguyễn Hoàng", nhà nghiên cứu Phan Thuận An đã viết: Người ta thường nói anh hùng tạo ra thời thế, nhưng cũng có khi thời thế tạo ra anh hùng. Nguyễn Hoàng là một nhân vật lịch sử do thời cuộc tạo ra. Ông sinh trưởng ở đất Bắc nhưng lại dựng nên nghiệp lớn và lưu danh muôn thuở ở phương Nam.
Rõ ràng, những ai am tường cổ sử đều biết rằng, khi dâng biểu lên vua Lê để xin cho người em vợ là Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm ở mảnh đất Thuận Hóa thì người anh rể nhiều tham vọng là Trịnh Kiểm đã như mở cờ trong bụng với kế sách "bắn một mũi tên nhằm vào ba đích". Thứ nhất là ông ta đã làm vừa lòng vợ là Ngọc Bảo; thứ hai là ông có dịp để xưng công trạng với vua Lê khi tiến cử một tướng tài mới 34 tuổi vào trấn nhậm ở một vùng đất nhiều sóng gió; thứ ba và quan trọng hơn cả là ở miền đất ấy giặc giã liên miên, nên biết đâu vô tình mà mượn được tay của quân nhà Mạc hay Chiêm Thành… để tiêu diệt Nguyễn Hoàng đề phòng hậu họa…
Thế nhưng, sự đời khó ai lường được từ thâm ý của họ Trịnh là muốn tống khứ cái gai trước mắt mình (Nguyễn Hoàng) đi càng xa càng tốt thì ngược lại đó là hồng phúc cho họ Nguyễn vì như đã được biếu không một giang sơn dài rộng đến sau này.
Ở trên đất Quảng Trị, ngoài việc lập dinh cơ đầu tiên ở Ái Tử (1558), Chúa Tiên còn hai lần dịch chuyển dinh cơ nữa đó là vào năm 1570 (dời từ Ái Tử về Trà Bát) và năm 1600 (dời từ Trà Bát về Dinh Cát).
Về sau này, khi nghiên cứu về hành trình dựng nghiệp của nhà Nguyễn ở xứ Đàng trong, nhiều người đã từng đặt câu hỏi: "Vì sao khi mới được cử vào trấn nhậm ở Thuận Hóa, Nguyễn Hoàng đã không chọn thành Hóa Châu hay thành Thuận Châu để đặt dinh cơ như những triều đại trước?". Vấn đề này, trong tham luận "Ba lần lập dinh trấn ở Quảng Trị - Ba sách lược của Nguyễn Hoàng", nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa lý giải: Quốc sử quán triều Nguyễn đã hé lộ một thông tin quan trọng, "Bấy giờ xứ Thuận Hóa mới dẹp yên, tuy nhà Lê đã đặt tam ty (Đô ty, Thừa ty, Hiến ty) và phủ huyện để cai trị, nhưng nhân dân vẫn chưa một lòng" Có thể vì điều này mà Nguyễn Hoàng không theo thông lệ để chọn những trung tâm chính trị - kinh tế vốn đã tồn tại hàng trăm năm dưới các triều đại trước để đặt làm trị sở. Chọn Ái Tử, vùng đất nằm bên bờ sông Thạch Hãn, nối liền với Cửa Việt, có những bãi cát trống trải, thuận lợi cho việc phòng thủ theo quan điểm quân sự cổ điển thời bấy giờ có lẽ chỉ là một phần. Phần quan trọng hơn, có thể Nguyễn Hoàng muốn chọn một vùng đất mới, vùng đất chưa chịu ảnh hưởng sâu đậm của triều đại trước để dễ thực hiện sách lược thu phục nhân tâm của riêng mình…
Chính từ vùng đất mới này, Nguyễn Hoàng hoàn toàn thuận lợi để thực hiện sách lược đầu tiên của mình: Vừa làm tốt chức trách của một vị quan trấn thủ, mở mang vùng đất mới, vừa bắt tay xây dựng trên bãi đất trống một căn cứ địa, làm vùng đất khởi nghiệp; đồng thời thực hiện chính sách thu phục nhân tâm, dựa vào lòng dân ở vùng đất mới đang hướng vọng vào vị quan trấn thủ để xây dựng thực lực, chuẩn bị cho một kế sách lâu dài…
Trong bài viết "Chúa Tiên Nguyễn Hoàng, đấng minh quân sáng lập xứ đàng trong Đại Việt và triều Nguyễn với nước Việt Nam thống nhất", nhà nghiên cứu Nguyễn Phước Tương cho biết: Cũng trong năm Chúa Tiên dời dinh cơ của mình từ Ái Tử về Trà Bát thì Vua Lê Anh Tông đã chỉ dụ điều động Quận công Nguyễn Bá Quý, người đang trấn nhậm Xứ Quảng Nam về Xứ Nghệ An để cai quản xứ này, đồng thời phong cho Đoan Quận công Nguyễn Hoàng làm Tổng trấn Tướng quân kiêm quản cả Xứ Quảng Nam.
Như vậy đến lúc này, Đoan Quận công Nguyễn Hoàng quản lãnh cả Thuận Hóa và Quảng Nam, một vùng lãnh thổ rộng lớn kéo dài từ đất Quảng Bình cho đến đất Bình Định, vùng đất phên dậu cực Nam của Đại Việt giáp giới với nước Chiêm Thành…
Phan Bùi Bảo Thy
0 nhận xét: